Zona là một bệnh lý thường gặp với triệu chứng phát ban, gây đau thường giới hạn một nửa bên vùng nào đó của cơ thể. Bệnh có thể làm bệnh nhân đau nhức dữ dội mà không đáp ứng với các điều trị bằng thuốc thông thường. Chủ đề bài viết này sẽ tập trung vào việc sử dụng laser trong điều trị các vấn đề liên quan đến zona mà một số tình huống liên quan.

Như chúng ta đã biết là khiễm virus HZV cấp tính và cơ thể không đủ khả năng chống chọi thì sẽ biểu hiện bệnh cảnh của thủy đậu, tình trạng thường gặp ở trẻ em và người lớn trẻ tuổi. Sau giai đoạn này, virus không bị tiêu diệt hoàn toàn mà sẽ cư trú trong các hạch thần kinh và/hoặc các tế bào rễ thần kinh đệm, các hạch thần kinh sọ hoặc hạch giao cảm mà không gây bất kỳ triệu chứng hoặc dấu hiệu nào khác. Và khi có điều kiện thuận lợi nào đó, virus có thể tái hoạt lại và biểu hiện triệu chứng ra vùng da mà vị trí thần kinh chi phối được nó cư ngụ. Lúc đó sẽ có bệnh cảnh của Zona. Virus có thể tác động đến nhiều hơn một hạch thần kinh, và gây đau tương ứng những vùng đó. Thường thì triệu chứng phát ban sẽ lành trong khoảng 2 đến 4 tuần, một số bệnh nhân vẫn còn đau dai dẳng trong nhiều tháng hoặc nhiều năm sau đó. Lúc này được gọi là đau thần kinh sau zona. Thực tế quá trình chính xác nó xảy ra như thế nào cho đến nay vẫn chưa được hiểu biết một cách rõ ràng.

Những triệu chứng sớm của zona khá mơ hồ, như là đau đầu, sốt, mệt mỏi và do đó đôi khi bị chẩn đoán nhầm vào giai đoạn này. Sau đó, triệu chứng đau rát, châm chích, dị cảm hoặc tê bì xuất hiện. Có thể chỉ nhẹ nhàng đơn thuần cho đến cực độ. Xu hướng đau tăng dần cùng theo lứa tuổi.

Tần suất gặp phải của zona dao động khoảng 1.2-3.4 trên 1000 người khỏe mạnh mỗi năm, và với những ai lớn hơn 65 tuổi thì con số này tăng lên khoảng 3.9 đến 11.8 trên 1000 người mỗi năm. Tỉ lệ này không có sự khác biệt giữa các nơi trên thế giới. Con số ước tính của Mỹ thì mỗi năm có có đến khoảng 500,000 người gặp phải. Nhiều nghiên cứu đa trung tâm và dữ liệu khảo sát cho thấy không có sự biến chuyển nào đáng kể từ khi chương trình tiêm chủng vaccine thủy đậu được áp dụng từ năm 1995. Có vẻ như, từ khi bắt đầu chương trình, tỉ lệ sẽ thay đổi trong tương lai xa bởi sự già hóa của dân số, những thay đổi về bệnh lý ác tính, tự miễn và tỉ lệ được tiêm chủng sau này.

Liệu pháp laser trị liệu ở những bệnh nhân bị zona và đau dây thần kinh khác

Có một số nghiên cứu được tiến hành để xác định tính hiệu quả của phương pháp trên các bệnh nhân bị zona:

  • Moore đã điều trị 20 bệnh nhân bị đau sau zona (PHN) mà không có đáp ứng với điều trị nội khoa trong vòng ít nhất là 6 tháng. Nghiên cứu thử nghiệm mù đôi đã chứng minh trong khi nhóm chứng thì gần như ít thay đổi, thì nhóm được điều trị với laser làm giảm mức độ đau được đánh giá theo thang điểm VAS từ 10 (trước điều trị) xuống còn 2 (sau điều trị).
  • Moore đồng thời cũng công bố một nghiên cứu hồi cứu trên 300 bệnh nhân trong hơn 9 năm và nhận thấy những bệnh nhân bị zona vùng đầu có sự cải thiện 61% và zona ngực với 78% sự cải thiện sau liệu pháp trị liệu bằng laser. Một kết quả về tính kinh tế cũng được ghi nhận tính toán kèm theo và cho thấy phương pháp mang lại chi phí điều trị thấp hơn 28% so với trị liệu khác.
  • McKibbin đã điều trị 39 bệnh nhân bị PHN với GaAs laser. Các bệnh nhân đó có thang điểm đau trung bình 8.5 trước điều trị và giảm còn 3.3 sau điều trị. Sau một năm ghi nhận chỉ còn 2.8 điểm.
  • Hong báo cáo 60% bệnh nhân đau sau zona PHN được điều trị với liệu pháp laser gần như không còn thấy khó chịu nào sau mốc đánh giá 1 năm. Những bệnh nhân đó đều không đáp ứng với điều trị thông thường.
  • Hachenberger điều trị 41 bệnh nhân bị đau sau zona, 93 bệnh nhân bị herpes simplex và 3 trường hợp bị herpes sinh dục. Tất cả trường hợp đều được ghi nhận đáp ứng tốt vưới liệu pháp laser.
  • Lijima điều trị 18 bệnh nhân bị đau sau zona. Kết quả VAS giảm từ 6.2 xuống 3.6 và không chỉ thế, cường độ đau cũng giảm từ 100 xuống 44.6%.
  • Iijima K điều trị 36 bệnh nhân đau sau zona với laser He-Ne năng lượng thấp với 20 lần chiếu, lặp lại mỗi 2-3 lần/tuần. Hiệu quả ghi nhận ở lần thứ 20 cho thấy hiệu quả đạt được 88.9% bệnh nhân và mức độ giảm đau đạt 55.3% đạt được tương ứng số lần điều trị.
  • Otsuka ghi nhận liệu pháp laser có những tác động lên PHN tương tự như việc phong bế hạch vùng hoặc ngoài màng cứng.
  • Waker sử dụng He-Ne laser năng lượng thấp (1mW, 632.5 nm, 20 Hz) trên các bệnh nhân bị đau mạn tính, trong đó có 26 bệnh nhân bị đau thần kinh sinh ba, đau sau zona, thoái hóa khớp. Liệu trình sử dụng 3 lần chiếu laser mỗi tuần tại vị trí bị ảnh hưởng 30-90 giâu mỗi lần trong 10 tuần liên tục. Kết quả ghi nhận 19 trường hợp cải thiện rất đáng kể về tần suất xuất hiện cũng như cường độ đau.
  • Kemmostsu và cộng sự đánh giá hiệu quả của LLLT tewwn 63 trường hợp đau sau zona sử dụng GaA1As laser (830 nm, 60 mW chuỗi xung liên tục) mang lại kết quả rất tốt ở 26 trường hợp, 30 trường hợp có đáp ứng tốt. Theo dõi kéo dài lại sau đó cũng cho thấy chỉ có 46 trường hợp còn đau nhẹ, 12 trường hợp hết đau hoàn toàn. Không xảy ra tác dụng phụ nào.

Thông số được sử dụng trong ứng dụng kích thích tăng sinh, tái sữa chữa các tế bào gốc trung mô.

Bước sóng khoảng 830nm có độ xâm nhập vào da dao động khoảng 3-5 cm, do đó với những trường hợp liên quan các điểm kích phát nằm sâu, những bệnh nhân vạm vỡ thì cần đến loại có tác động sâu hơn. Để đạt hiệu quả tốt thì cần những tác động lặp lại thích hợp, ít nhất là mỗi lần/tuần và điều này có thể gây khó khăn cho cả bệnh nhân lẫn bác sĩ.

BS Trần Ngọc Nhân

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here