Dấu da vẽ nổi: đặc điểm và ý nghĩa trong chăm sóc da

0
726

Da vẽ nổi là tình trạng da xuất hiện các sẩn phù mày đay tại vị trí cào gãi, cọ xát, vẽ lên da. Tình trạng đôi khi còn được gọi là mày đay vẽ nổi.

Thuật ngữ tiếng Anh: Dermatographism, dermographism, dermographia, urticaria factitia, dermatographic urticaria, dermographic urticaria, urticarial dermographism, skin writing hay Trousseau lines.

Da vẽ nổi gặp ở 2-5% dân số, có thể gặp bất kì độ tuổi nào nhưng hay gặp nhất ở người lớn. Đỉnh tần suất hay gặp vào khoảng 20 đến 30 tuổi. Da vẽ nổi là dạng thường gặp nhất của mày đay vật lý (mày đay cảm ứng mạn tính*).

Bài viết này sẽ giúp bạn làm rõ hơn những đặc điểm và ý nghĩa của dấu hiệu này.

Cách thực hiện

Trên thực tế lâm sàng, các bác sĩ đều có thể dễ dàng thực hiện. Bằng cách sử dụng vật cứng có đầu tù (ví dụ như đầu que đè lưỡi, đầu bút, tăm bông…) tạo áp lực vừa phải bằng cách vẽ hay vạch lên da. Sau đó tiến hành quan sát trong vài phút đầu và sau 10, 20 phút. Kĩ thuật nên thực hiện tại những vùng da chịu ít tì đè hay ảnh hưởng của môi trường như lưng, bụng…

Dấu hiệu này cũng có thể tự xuất hiện ở những vị trí cơ thể bị bó chặt, cọ xát như thắt lưng, áo ngực hoặc sau thao tác tự cào gãi.

Các giai đoạn phản ứng

Khi tác động lực lên da, xảy ra bộ ba đáp ứng gọi là đáp ứng Lewis. Chúng được mô tả lần đầu tiên vào năm 1928. Đáp ứng này xảy ra theo ba giai đoạn:

  • Việc tạo áp lực lên da sẽ tạo ra một đường đỏ sau 3-15 giây (do giãn mao mạch)
  • Hồng ban lan rộng xuất hiện sau 20-40 giây (giãn tiểu động mạch do phản xạ sợi trục)
  • Hình thành sẩn phù với hồng ban bao quanh thay cho đường màu đỏ sau khoảng 1-3 phút (dịch từ mao mạch giãn thoát mạch).
Bộ ba đáp ứng Lewis

Bình thường đáp ứng bộ ba này xuất hiện chậm và biến mất đi trong khoảng 5-10 phút. Khi đáp ứng Lewis này xảy ra quá mức thì được gọi là da vẽ nổi. Tuy nhiên việc phân biệt chính xác và chắc chắn thực sự là rất khó. Da vẽ nỗi xuất hiện gần như ngay lập tức và có thể kéo dài trong 15-30 phút.

Cơ chế lý giải dấu hiệu

Cơ chế lý giải chính xác của da vẽ nổi vẫn chưa được hiểu rõ hoàn toàn. Cơ chế được cho là có liên quan đến đáp ứng miễn dịch cơ học. Trong da vẽ nổi, tế bào mast nhạy cảm với các tác nhân khiến màng tế bào vỡ ra, giải phóng histamin và các chất trung gian viêm khác.

Stress cơ học được cho là gây phóng thích yếu tố tương tác với tế bào mast nhạy cảm IgE. Từ đó, làm giải phóng histamine cũng như các chất trung gian viêm khác như leukotrienes, heparin, bradykinin, kallikrein, cơ chất P. Các mạch máu nhỏ chịu tác động của chúng gia tăng tính thấm, thoát dịch ra mô da tạo nên các sẩn mảng phù, hồng ban.

Cơ chế trong mày đay mạn tính

Do đó, cơ chế được đề xuất mô phỏng phản ứng quá mẫn loại I với sự khác biệt là do chấn thương cơ học gây ra chứ không phải do kích thích miễn dịch bên ngoài.

Phân loại dấu hiệu da vẽ nổi

Dựa vào đặc điểm của dấu da vẽ nổi, có thể phân thành 2 nhóm chính gồm:

Da vẽ nổi đơn giản

Là dạng thường gặp nhất, sẩn phù và hồng ban xuất hiện sau khi cào gãi hoặc tác động lực trên da. Dạng này thường đạt kích thước cực đại trong 5-7 phút rồi sau đó nhạt dần đi trong vòng khoảng 15 phút. Có thể có cảm giác ngứa nhẹ.

Da vẽ nổi có triệu chứng

Dạng này thường gặp hơn ở người lớn với một số khác biệt so với dạng đơn giản. Sẩn phù xuất hiện sớm, đạt đỉnh sau 5-10 phút và biến mất sau khoảng 30-60 phút. Phản ứng có thể theo dạng nang lông, viêm hoặc sưng nề đi kèm ngứa và/hoặc bỏng rát diện rộng hơn.

Một số dưới nhóm của da vẽ nổi hiếm gặp khác như da vẽ nổi muộn, da vẽ nổi nang lông, da vẽ nổi phó giao cảm, da vẽ nổi do lạnh, gắng sức, da vẽ nổi có tính gia đình…

Dấu da vẽ nổi trắng gợi ý cơ địa dị ứng

Phân biệt dấu hiệu da vẽ nổi giả

Một số dấu hiệu cũng được gọi tên là da vẽ nổi, tuy nhiên có các màu sắc khác với màu đỏ đặc trưng cần phân biệt.

  • Dấu hiệu da vẽ nổi trắng: Thay vì đỏ da và phù nề, phản ứng trắng da (co mạch) xuất hiện. Đôi khi ở một số trường hợp xuất hiện bờ trắng với trung tâm đường vẽ da có màu đỏ. Đây là một trong những dấu hiệu gợi ý tốt cho người có cơ địa dị ứng.
  • Dấu hiệu da vẽ nổi đen/xanh lá: do các oxit kim loại như titan dioxide, kẽm từ dụng cụ thao tác
  • Dấu hiệu da vẽ nổi vàng: không liên quan đến dấu hiệu da vẽ nổi đã được định nghĩa. Được cho rằng do sự lắng đọng sắc tố mật trong da.

Bệnh lý có liên quan

Được xem là một dạng bệnh lý mày đay mạn tính khởi phát bởi các kích thích vật lý. Tuy nhiên, dấu hiệu này có thể liên quan đến các rối loạn cảm xúc, nhiễm trùng virus, các phản ứng thuốc (kháng sinh, famotidine…), ghẻ, bệnh lý dưỡng bào, hội chứng tăng bạch cầu ái toan, hoặc thay đổi nhiệt độ cực đoan.

Hiện chưa ghi nhận mối liên quan giữa da vẽ nổi với các bệnh lý như cường giáp, đái tháo đường, mãn kinh hay bệnh lý cầu thận…

Ý nghĩa dấu hiệu trong da nhạy cảm

Nhóm da nhạy cảm thứ phát

Da vẽ nổi được liệt kê là một trong những bệnh lý nền có thể gặp phải trong nhóm da nhạy cảm thứ phát. Đôi khi gặp phải một số bất lợi trong quá trình thực hiện các thủ thuật thông qua da như tiêm, nặn mụn, laser. Khi gặp phải tình huống này, nhận diện đúng cho phép xử lý một cách phù hợp.

Nếu bạn có tình trạng này, cần:

  • Hạn chế các dụng cụ chăm sóc da mặt như máy rửa mặt, bọt biển…
  • Tránh các sản phẩm tẩy tế bào chết vật lý, đặc biệt các loại có hạt sắc cạnh, thô ráp
  • Sử dụng nước ấm hoặc mát để tắm rửa, tránh sử dụng nước quá lạnh hoặc quá nóng
  • Thấm khô da mặt, da thân mình nhẹ nhàng sau tắm rửa
  • Lựa chọn trang phục, khẩu trang vừa vặn, tránh bó sát

Thực tế thì chỉ có một số ít da vẽ nổi gây ra triệu chứng khó chịu cần can thiệp về mặt y khoa. Thông thường, tình trạng này tự giới hạn nhưng có thể tồn tại trong vài tháng hoặc vài năm, trung bình 2-3 năm.

Mày đay xuất hiện do kích thích cơ học tại các vị trí tiêm (trong tiêm khí CO2 điều trị rạn da)

Da vẽ nổi và cơ địa dị ứng

Một nghiên cứu quan sát thấy có đến 47 trường hợp có biểu hiện da vẽ nổi trong 100 trẻ có cơ địa dị ứng. Trong khi đó, tỉ lệ xuất hiện da vẽ nổi ở nhóm trẻ em chiếm khoảng 10%. Tuy nhiên, cũng có những nghiên cứu cho thấy tỉ lệ da vẽ nổi không khác biệt giữ người bình thường và người có cơ địa dị ứng.

Hiện chưa có bằng chứng rõ ràng về mối liên quan giữa da vẽ nổi và cơ địa dị ứng. Dấu hiệu da vẽ nổi trắng sẽ được lựa chọn để đánh giá trong tình huống này. Tôi sẽ trở lại với các bạn với chủ đề này sau nhé.

Một trường hợp mày đay tiếp xúc vùng mặt

Da vẽ nổi và mày đay tiếp xúc

Đối với da nhạy cảm, mày đay có ít liên quan đến hiện tượng kích ứng da. Cơ chế của hai phản ứng này không hoàn toàn giống nhau. Do đó, việc lựa chọn sản phẩm chăm sóc da cho nhóm da vẽ nổi không quá bận tâm đến các hoạt chất dễ gây kích ứng da.

Khi lựa chọn các sản phẩm chăm sóc da, dạng mày đay tôi thường quan tâm nhất đó chính là mày đay tiếp xúc (CoU). Dạng mày đay gây ra do các chất hóa học tiếp xúc trên da. Và vấn đề cần xem xét mối liên quan giữa da vẽ nổi và mày đay tiếp xúc.

Thực tế thì các dạng mày đay vật lý* có thể chồng lấp với nhau. Một nghiên cứu cho thấy có khoảng 1/5 số trường hợp mày đay do lạnh có kèm da vẽ nổi. Các nghiên cứu khác cũng cho kết quả tình trạng da vẽ nổi thường đi kèm với dạng mày đay do lạnh, mày đay phó giao cảm hoặc mày đay muộn do áp lực là chủ yếu.

Do đó, bạn không cần bận tâm quá nhiều về danh sách dài các thành phần cần tránh như trong mày đay tiếp xúc rồi. Quả là một thông tin vui cho những ai đang gặp phải tình trạng da vẽ nổi.

Kết luận

Da vẽ nổi là một tình trạng da thường gặp, gây ra do tác động lực cơ học kích thích lên da. Da vẽ nổi thường tự giới hạn, chủ yếu phòng tránh kích thích bằng lối sống phù hợp và điều trị triệu chứng khi cần thiết. Hiện chưa có lưu ý đặc biệt khi lựa chọn các thành phần chăm sóc da ở những người có dấu hiệu da vẽ nổi.

BS Trần Ngọc Nhân

Rất tuyệt khi có ai đó cũng đã chia sẻ những nội dung trên với bạn bè, mọi người xung quanh như bạn. Và thật tử tế khi họ đã lưu giữ lại tên và thông tin người viết như một sự trân trọng các giá trị cộng đồng!

Ghi chú: * Nhóm mày đay cảm ứng mạn tính gồm có da vẽ nổi, mày đay do lạnh, mày đay muộn do áp lực, mày đay do ánh sáng, mày đay do nhiệt, phù mạch do rung, mày đay phó giao cảm, mày đay do nước, mày đay tiếp xúc (CoU).

Tài liệu tham khảo

  • Bhute D, Doshi B, Pande S, Mahajan S, Kharkar V. Dermatographism. Indian J Dermatol Venereol Leprol 2008; 74:177-9.
  • Kontou-Fili K, Borici-Mazi R, Kapp A, Matjevic LJ, Mitchel FB (1997). “Physical urticaria: classification and diagnostic guidelines. An EAACI position paper”. Allergy 52 (5): 504–13. PMID 9201361. doi:10.1111/j.1398-9995.1997.tb02593.x.).
  • Mecoli CA, Morgan AJ, Schwartz RA. Symptomatic dermatographism: current concepts in clinical practice with an emphasis on the pediatric population. Cutis. 2011 May;87(5):221-5. PMID: 21699121.
  • Nobles T., Schmieder G.J. StatPearls [Internet] StatPearls Publishing; Treasure IslandFL: 2019. Dermatographism. [Updated 2018 Oct 27] Jan-. Available from https://www.ncbi.nlm.nih.gov/books/NBK531496.
  • Stepaniuk, P., Vostretsova, K., & Kanani, A. (2018). Review of cold-induced urticaria characteristics, diagnosis and management in a Western Canadian allergy practice. Allergy, asthma, and clinical immunology : official journal of the Canadian Society of Allergy and Clinical Immunology14, 85. https://doi.org/10.1186/s13223-018-0310-5
  • Taskapan O, Harmanyeri Y (2006) Evaluation of patients with symptomatic dermographism. J Eur Acad Dermatol Venereol 20(1):58–62

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here